Hình tượng khổng lồ là một kiểu nhân vật rất phổ biến trong truyện kể dân gian mọi dân tộc, mọi vùng miền đất nước. Trong thần thoại Hi Lạp có nữ thần Cát khổng lồ Gala có “bộ ngực rộng mênh mông – chỗ tựa vĩnh cửu của vạn vật” đó là hình tượng anh hùng khổng lồ Hêraclét “con bất chính” của thượng thần Dớt anh hùng lao động và nàng tiên Arecomen – người đã lập nên mười hai kì tích làm rung chuyển cả mặt đất và chấn động cả xã hội các thần linh ở đỉnh Olempơ.Ở Ấn Độ hình tượng người khổng lồ Manuaya rất hào hùng đã làm ra sông núi, bốn mùa quả ngọt với lời ca trong bài kinh Vêđa. Người khổng lồ trong thần thoại Việt Nam cũng rất hào hùng mĩ lệ, đó là ông chống trời, bà Nữ Oa, ông Tứ Tượng – vị thần khổng lồ kiến tạo, người khổng lồ văn hoá ải Lậc Cậc của miền rừng núi Tây Bắc, đó là những ông Đổng, ông Trấu, ông Tát Bể, ông Đào Sông, ông Xây Rú, người khổng lồ thần thoại. Rồi vua rồng xứ Lạc, Sơn Tinh, ông Gióng, những ông khổng lồ lịch sử. Người Nghệ có ông Đùng, một nhân vật có sức sống mãnh liệt trong đời sống tinh thần của họ, mỗi ngọn núi, dòng sông nơi đất Nghệ đều in dấu bước chân ông Đùng. Ông sống trong tâm thức, niềm tin khát vọng của người Nghệ Tĩnh. Người xứ Nghệ say mê kể chuyện ông Đùng, những mẩu chuyện đó đã được Ninh Viết Giao, Thái Kim Đỉnh sưu tầm, tuyển chọn đưa vào “Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ”, song chưa có công trình khoa học nghiên cứu và giới thiệu. Bài viết nhỏ này muốn đề cập đến ý nghĩa hình tượng ông Đùng trong chuỗi truyện ấy.
1. Hình tượng ông Đùng mang ý nghĩa giải thích địa danh đất nước xứ Nghệ
Thần thoại là những câu chuyện cổ xưa phản ánh quan niệm của con người về thế giới tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. Truyện về những người khổng lồ trong truyện kể thần thoại Nghệ Tĩnh cũng mang ý nghĩa đó. Có thể thấy một trong những mô típ xuất hiện đậm đặc nhất trong truyện ông Đùng là sự hoá thân và những dấu ấn của ông Đùng trong núi non đất nước Nghệ Tĩnh mà ý nghĩa của nó là niềm khao khát được giải thích được lí giải cắt nghĩa: Tại sao lại có dãy Đại Huệ, dãy Thiên Nhẫn… hùng vĩ thế kia? Tại sao Hồng Lĩnh có chín mươi chín ngọn? Tại sao dãy núi ấy có tên núi Hồng? Tại sao có hòn Hồ Lĩnh? Tại sao gọi là núi Con Mèo, rú Cơm, rú Cà, tại sao có hòn đá Mượu ở lưng chừng núi Thành? Tại sao có mỏ Đầu Điều, núi Eo Sứt, bãi Sò Phủ Diễn, bài sò Quỳnh Văn, cồn Chân Chó, cồn Mo Nang, cồn Đập, cồn Lang, những hòn núi Vũ Kì, Vĩnh Tuy. Người Nghệ đã giải thích những núi non, sông sá, đồn điền ấy bằng câu chuyện ông Đùng. Có thể thấy rằng ý nghĩa giải thích nguồn gốc vũ trụ là một đặc điểm lớn của thần thoại. Nhưng nếu trong những truyện thần thoại buổi đầu là sự lí giải về các hiện tượng trời, đất, vũ trụ, xây dựng, sắp xếp vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên, truyện ông Đùng xuất hiện muộn hơn, lí giải nhiều hơn những tên núi, tên sông. Điều đó phản ánh rất rõ đặc điểm địa lí Nghệ Tĩnh. Nhưng ý nghĩa giải thích ấy muốn nói nhiều hơn đến tình yêu quê hương tha thiết của người Nghệ Tĩnh, niềm kiêu hãnh tự hào về cảnh thiên nhiên hùng vĩ, sông núi hữu tình, một mảnh đất từng ngân lên trong ca dao với những “non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”.
2. Hình tượng ông Đùng phản ánh thiên nhiên đất nước xứ Nghệ
Trong truyện ông Đùng xứ Nghệ, tác giả dân gian không hề có ý định vẽ tranh nhưng gắn với những hành động khổng lồ của ông Đùng lại có một bức tranh thiên nhiên Nghệ Tĩnh thể hiện rõ đặc điểm địa lí Nghệ Tĩnh. Đó là những ngọn núi Hồng chín mươi chín ngọn, những dãy Đại Huệ, dãy Mồng Gà, dãy Thiết Sơn, dãy Truông Cồn Đọi… xếp thành dãy trùng điệp, hùng vĩ, rồi núi rải rác khắp mọi nơi, miền thượng du có núi, đồng bằng hạ lưu cũng đều có núi. Núi trước mặt, núi sau lưng, núi vòng cung, núi gấp khúc, núi chung đầu, núi chơ vơ, núi luyện ra sông, núi đâm ra biển, núi quyến quyện. Đó còn là một vùng đất lắm biển nhiều sông, truyện ông Đùng nói nhiều đến biển mênh mông, dữ dằn, tham lam “ngày đêm như sóng vỗ vào bờ cuốn đất đi để mở rộng mặt biển”. Thiên nhiên, xã hội trong truyện ông Đùng còn là thiên nhiên của những ngày mưa lũ kéo dài, hạn hán khốc liệt, bà con Nghệ Tĩnh kể rằng: “về mùa thu những ngày mưa lũ kéo dài, nước băng ngàn băng bãi cuốn bao nhiêu hoa màu, người và súc vật”, “Trời hạn hán, ao hồ cạn sạch, cây cỏ quắt khô, nhiều người chết đói chết khát”. Như vậy, có một thiên nhiên hùng vĩ của một vùng đất lắm núi nhiều sông và một thiên nhiên khắc nghiệt được hiển hiện khá rõ trong những mẩu truyện kể về ông Đùng.
3. Hình tượng ông Đùng mang biểu tượng cho tinh thần khai phá thiên nhiên bền bỉ và sức mạnh khổng lồ của người dân trên một vùng đất lịch sử
Các thần thoại phản ánh lịch sử qua tấm lăng kính kì diệu của óc tưởng tượng chất phác và táo bạo. Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử dựng nước và giữ nước, thần thoại đã cất cánh trên nền hiện thực ấy. Hai vị khổng lồ Sơn Tinh, Thuỷ Tinh phản ánh cuộc đấu tranh của tổ tiên ta để bảo vệ sản xuất và Phù Đổng thiên vương phản ánh cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Ông Đùng Nghệ Tĩnh mang bóng dáng của nhiều ông khổng lồ, bởi thế mà ông Đùng vừa là biểu tượng của tinh thần khai phá thiên nhiên, bền bỉ, chế ngự thiên nhiên trong trường kì lịch sử của dân xứ Nghệ, vừa biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết, sức mạnh khổng lồ của nhân dân, của một vùng đất “viễn trấn, nam trấn”. Hai nội dung này được thể hiện rõ nét trong những hành động khổng lồ của ông Đùng, đó là hành động đắp núi, tạo những dãy núi trùng điệp, tạo vẻ đẹp hùng vĩ. Đó là hành động đào sông, tạo nên vẻ đẹp thơ mộng, hữu tình của đất nước xứ Nghệ. Những hành động san núi, đắp núi lấp biển, những cuộc đọ sức quyết liệt với thần biển, đuổi biển, lấn biển để tạo những cánh đồng bằng phẳng cho nhân dân dễ cày cấy. Đó là công cuộc trị thuỷ, xây núi cao để nhân dân tránh lũ, gọi nước về để nhân dân tránh hạn. Tất cả những hành động kì vĩ nhưng cũng rất cực nhọc lam lũ của ông Đùng phản ánh rõ cuộc đọ sức quyết liệt của người dân Nghệ Tĩnh vượt lên vùng đất cằn cỗi để sống. Nghệ Tĩnh là nơi “đầu sóng ngọn gió” ở phương nam Tổ quốc xưa kia. Đó là mảnh đất từng chịu đựng những cuộc cướp của, giết người,… của bọn xâm lược đủ các loại, chịu đựng những hậu quả của những cuộc chiến tranh phong kiến diễn ra trên đất “phên dậu”. Nghệ Tĩnh còn là chỗ dựa của nhiều triều đại phong kiến để có lực lượng hậu bị và căn cứ chiến lược tiếp tục các cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lăng của giặc phương Bắc, là đất có nhiều người nổi tiếng gan góc, mưu trí kiên cường, là đất sinh ra nhiều anh hùng nghĩa khí, làm rạng rỡ sử sách. Mảnh đất lịch sử đau thương và quật cường ấy đã được phản ánh rõ nét trong sức mạnh khổng lồ, trong những hành động kì vĩ của một ông Đùng đánh giặc phương Bắc. Với câu chuyện ông Đùng đánh giặc, bà con xứ Nghệ kể rằng: Thuở ấy, giặc phương Bắc kéo vào đông như kiến, chúng đốt sạch làng mạc, nhà cửa, lùa dân vào hang núi… Nơi nào chống lại, chúng bắt người nơi ấy ném vào lửa cháy xèo xèo rồi buộc người dòng tộc xẻo thịt ăn… Dân tình oán thán, tiếng kêu dậy trời, dậy đất. Phải chăng, đó là một mảnh lịch sử đau thương hết sức sống động, được hiển hiện qua lời kể của nhân dân Nghệ Tĩnh trong câu chuyện ông Đùng. Sức mạnh khổng lồ, sức mạnh đoàn kết của nhân dân Nghệ Tĩnh được tái hiện sinh động trong lời kể: “Thế quân đi đất trời chuyển rung…. trai tráng xúm nhau vác cờ, cụ già khiêng trống, đàn bà trẻ con theo sau reo hò dữ dội và những hành động kì vĩ của ông Đùng đánh trăm trận trăm thắng. Đất xứ Nghệ biết bao người anh hùng ngã xuống, người dân xứ Nghệ rất ngưỡng mộ những người anh hùng nên rất ám ảnh về những cái chết rơi đầu của họ. Cái chết của ông Đùng cũng phản ánh cái chết ấy của những người anh hùng: “Thế trận hoàn toàn bất lợi ông Đùng giơ hai tay lên đầu chạy về quê. Khi bước tới mảnh đất quen thuộc ông dừng chân quay mặt về hướng đông lạy thần mặt trời, ông buông tay đầu rơi xuống… Dân chúng đứng xung quanh xót thương vô hạn vị anh hùng đã vì dân và cũng vì lòng vị tha đối với Bắc quốc mà phải rơi đầu”. Cách kể chuyện đẫm chất truyền thuyết, đẫm chất sử thi ấy phản ánh rất rõ lịch sử đau thương, kiên cường của nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Bóc đi màn sương huyền thoại, truyện ông Đùng phản ánh rất rõ lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Nghệ Tĩnh.
4. Hình tượng ông Đùng phản ánh khát vọng và ước mơ của người Nghệ Tĩnh
Hình tượng người khổng lồ xuất hiện trong tư duy của người xưa muốn nói nhiều hơn về một khát vọng được hoà hợp tự nhiên, sáng tạo tự nhiên. Truyện ông Đùng xứ Nghệ cũng vậy. Xứ Nghệ là một vùng đất có núi rừng trùng điệp chiếm tới 2/3 diện tích, núi trải dài dày đặc, núi còn đâm ra tận biển. Xưa kia, vùng đất này choáng ngợp những núi và biển, con người ở đây kể từ thời Quỳnh Văn, Thạch Lạc cho đến thời kì Làng Vạc, Xuân An rồi Bào Hậu, Hương Xá đến nay đã phải vất vả chiến thắng đồng lầy hoang rậm cũng như lũ lụt, từng bước đẩy lùi biển cả, chinh phục những vùng đất để có những cánh đồng làng mạc như ngày nay. Bởi thế người dân Nghệ rất thèm khát những bình nguyên bạt ngàn, những vùng tam giác châu thổ xanh rờn thẳng cánh cò bay như ở Thái Bình, Nam Bộ. Truyện ông Đùng có nhiều mẩu truyện xoay quanh hành động đắp núi lấp biển, hành động trị thủy. Nhưng ông Đùng đắp núi không chỉ tạo ra những dãy núi hùng vĩ, mang ý nghĩa giải thích địa danh, ông đắp núi “những hòn núi chơ vơ sắp thành dãy” là để tạo nên “những cánh đồng rộng rãi dễ cày cấy”. Ông đánh biển không phải chỉ vì mục đích trị lũ mà là hành động lấn biển để tạo nên những bãi sò Phủ Diễn, bãi sò Quỳnh Văn. Đi điền dã, chúng tôi thấy nhân dân Nghệ Tĩnh kể rất nhiều mẩu chuyện như thế và điều mà họ muốn nói nhiều nhất ở trong những mẩu chuyện đó là niềm khát khao về những vùng đất bằng phẳng, phì nhiêu để việc cày cấy được thuận lợi. Đó chính là ước mơ rất giản dị của người dân lao động Nghệ Tĩnh xưa, đó là những con người sống trên một vùng đất “không được tạo vật cưu dương”. Chính ước mơ này tạo nên nét riêng trong ý nghĩa của hình tượng ông Đùng và góp phần làm cho hình tượng ông Đùng mang dáng dấp của khu vực hình tượng.
5. Hình tượng ông Đùng phản ánh sự kết dính của nhiều tầng văn hoá ở những thời đại khác nhau
Văn hoá dân gian với tính chất là một nghệ thuật mang tính nguyên hợp và một trong những biểu hiện của tính nguyên hợp đó thể hiện ở chỗ tác phẩm văn hoá dân gian không phải là sản phẩm riêng của một người nào đó mà là sự sáng tạo của nhiều người, thậm chí của nhiều thời đại, của nhiều địa phương đã kết hợp với nhau theo những quy luật của “Sự tiếp biến văn hoá”. Một tác phẩm văn học dân gian có nhiều tầng văn hoá chồng chất lên nhau, kết dính với nhau. Hình tượng ông Đùng phản ánh sự kết dính của nhiều tầng văn hoá ở những thời đại khác nhau. Chúng ta bắt gặp trong chuỗi truyện sự kết hợp giá trị thẩm mĩ của những thời đại khác nhau, chính sự kết hợp đó đã đem lại những cảm hứng thẩm mĩ đặc biệt. Truyện ông Đùng in dấu thời đại trời đất còn u minh “đồng sâu ngập nước, rừng rậm hoang vu tràn đầy khắp nơi rắn rết và thú dữ chưa hề có dấu chân người”. Hình tượng ông Đùng còn in dấu thuở khai thiên lập địa trong hành động ông Đùng kiến tạo vũ trụ, xây đắp núi sông. Tiếp đó là lớp truyện thuộc về buổi ban mai của nền nông nghiệp với các hành động đào sông, san núi, đánh biển để có những vùng đất bằng phẳng dễ cày cấy. Đó là những hành động của người anh hùng văn hóa nông nghiệp. Truyện ông Đùng lại còn phản ánh một thời kì văn hoá ở mức cao hơn khi người dân Nghệ Tĩnh đã biết làm nghề luyện sắt và thủ công nghiệp. Các nhà nghiên cứu văn hoá Nghệ Tĩnh khẳng định nền văn hoá đó đã có ở thời đại vua Hùng, với nền văn hoá Đông Sơn, cách đây hơn ba ngàn năm, nghề luyện sắt, chế tạo sắt đã ra đời. Nghề luyện sắt nổi tiếng ở Nho Lâm, Trung Lương. Chính tầng văn hoá này được thể hiện rất rõ trong câu chuyện ông Đùng đúc chuông. Truyện ông Đùng còn phản ánh một thời kì văn hoá lịch sử rất gần với chúng ta. Đó là thời kì dân tộc ta phải đối đầu với giặc phương Bắc được thể hiện rất rõ trong câu chuyện ông Đùng đánh giặc, trong cách kể đậm chất truyền thuyết với cách mô tả thời gian xác định. Vì thế, ông Đùng là biểu tượng của con người Nghệ Tĩnh trong cả trường kì lịch sử, từ khi tạo lập địa bàn cư trú, làm ăn và đánh giặc giữ nước.
6. ý nghĩa thẩm mĩ của hình tượng ông Đùng
Hình tượng ông Đùng thể hiện quan niệm thẩm mĩ của người xứ Nghệ, đó là đề cao vẻ đẹp tinh thần. Cái đẹp của ông Đùng là cái đẹp từ những hành động phi thường, vô tư, hào hiệp và cả cái mộc mạc gần gũi. Đại Nam thống nhất chí nhận định về phong cách Nghệ “học trò Nghệ An chuộng khí tiết, nhiều người hào phóng không trói buộc, dốc chí chăm học, văn chương thì cứng cáp không cần đẹp lời”. Có ý kiến khác cũng cho rằng: “thi sĩ ở đây không quen gọt những thứ văn êm nhẹ, những vế đối tài tình, nhưng đã được giọng văn rắn rỏi và tư tưởng mạnh mẽ hơn kéo lại”. Nhận định đó chưa phải là toàn diện, song lại có cơ sở từ tính cách của người xứ Nghệ đầy nghị lực, có phần lí trí và cái nhìn thực tế bởi quen chịu đựng nhiều gian khổ. Bởi thế mà vẻ đẹp của ông Đùng, một vẻ đẹp hào phóng mà dung dị, kì vĩ mà lam lũ, đời thường, đó là vẻ đẹp mà người xứ Nghệ rất yêu thích. Với quan điểm thẩm mĩ như vậy nên ta thấy trong tư duy của người xứ Nghệ, ông Đùng gần như ôm hết mọi hành động phi thường nhất của người khổng lồ: kiến tạo vũ trụ, trị thuỷ, đúc chuông, diệt thú dữ và đánh giặc. Đó là những hành động rất kì vĩ, phóng khoáng nhưng sự phóng khoáng và hào hiệp được thấy nhiều hơn trong hành động ông Đùng đánh giặc chưa xong đã sang giúp đỡ lân bang và cả chút phong tình trong hành động ra kẻ chợ cùng với một cô gái, hai người mải mê trò chuyện mà bỏ quên cả đùm cơm. Vẻ đẹp của ông Đùng còn là cái đẹp của sự mộc mạc gần gũi với người dân lao động trong cái lam lũ của bàn tay moi vào lòng đất lấy sắt, dùng cánh tay làm búa, làm đe và cả cái miệt mài rèn sắt để chết hoá thành núi Hai Vai. Nhưng cái đẹp mà người xứ Nghệ đề cao là cái đẹp bên trong, vẻ đẹp tinh thần. Bởi thế mà cái đẹp hơn của hình tượng ông Đùng là ý nghĩa thẩm mĩ của hình tượng. Mà ý nghĩa thẩm mĩ của hình tượng ông Đùng đó là: khúc tráng ca ca ngợi sức mạnh, nghị lực phi thường và cả phần lam lũ cực nhọc của con người. Truyện ông Đùng còn là bài ca về những ước mơ, khát vọng của con người Nghệ Tĩnh, những khát vọng bình dị và cũng thật vĩ đại. Thiết nghĩ, ý nghĩa thẩm mĩ của hình tượng ông Đùng đã làm nên sức sống mãnh liệt cho nhân vật trong đời sống tinh thần của người Nghệ. Và chính ý nghĩa thẩm mĩ của hình tượng ông Đùng đã làm cho ông Đùng rất đẹp, đẹp như Sơn Tinh, như ông Gióng và như biết bao nhân vật khổng lồ trong thể loại “một đi không trở lại”.
Nguyễn Thị Tuyết Nga